Gây tê đám rối thần kinh cánh tay là gì? Các công bố khoa học về Gây tê đám rối thần kinh cánh tay

Gây tê đám rối thần kinh cánh tay là kỹ thuật giảm đau trong phẫu thuật chi trên, như vai, cánh tay, khuỷu tay. Đám rối thần kinh này xuất phát từ rễ C5–T1, đi qua cổ và nách, chi phối vận động chi trên. Có nhiều phương pháp gây tê tùy theo vị trí phẫu thuật, như qua ngả cổ, ngả nách. Lợi ích của kỹ thuật này là giảm đau mạnh mẽ, giảm sử dụng thuốc giảm đau opioid, cải thiện phục hồi sau phẫu thuật. Dù an toàn, các biến chứng nhỏ như nhiễm trùng, tổn thương thần kinh có thể xảy ra, nhưng thường tạm thời.

Tổng quan về Gây Tê Đám Rối Thần Kinh Cánh Tay

Gây tê đám rối thần kinh cánh tay là một kỹ thuật gây tê vùng thường được sử dụng trong các phẫu thuật ở chi trên, bao gồm vai, cánh tay, khuỷu tay, cẳng tay và bàn tay. Kỹ thuật này giúp giảm đau và cải thiện quá trình phục hồi sau phẫu thuật bằng cách ngăn chặn tín hiệu đau từ vùng phẫu thuật truyền tới não.

Cấu Trúc và Chức Năng của Đám Rối Thần Kinh Cánh Tay

Đám rối thần kinh cánh tay là một mạng lưới dày đặc của các dây thần kinh phát sinh từ rễ thần kinh ở cột sống cổ, cụ thể là từ rễ C5 đến T1. Từ đây, các dây thần kinh chạy qua vùng cổ và nách, rồi phân nhánh để vận động và cung cấp cảm giác cho chi trên.

Các Phương Pháp Gây Tê Đám Rối Thần Kinh Cánh Tay

Có một số kỹ thuật khác nhau để gây tê đám rối thần kinh cánh tay, mỗi kỹ thuật được lựa chọn dựa trên vị trí phẫu thuật cũng như kinh nghiệm của bác sĩ gây mê:

  • Gây tê đám rối thần kinh cánh tay qua ngả cổ: Được thực hiện khi các phẫu thuật diễn ra ở vùng gần vai. Đây là một kỹ thuật phổ biến và có tỷ lệ thành công cao.
  • Gây tê đám rối thần kinh cánh tay qua ngả nách: Thường được sử dụng cho các phẫu thuật diễn ra ở cẳng tay và bàn tay. Kỹ thuật này yêu cầu bệnh nhân giơ cánh tay để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận đám rối.
  • Gây tê đám rối thần kinh liên sườn: Chủ yếu được dùng trong các phẫu thuật ở cánh tay và khuỷu tay, phương pháp này ít phổ biến hơn nhưng có thể hữu ích trong một số trường hợp nhất định.

Lợi Ích của Gây Tê Đám Rối Thần Kinh Cánh Tay

Kỹ thuật này mang lại nhiều lợi ích cả trong và sau phẫu thuật bao gồm:

  • Giảm đau: Mang lại hiệu quả giảm đau mạnh mẽ và lâu dài không chỉ trong quá trình phẫu thuật mà còn sau khi phẫu thuật hoàn tất.
  • Giảm nhu cầu sử dụng thuốc giảm đau opioid: Điều này giúp giảm nguy cơ nghiện thuốc và các tác dụng phụ không mong muốn của thuốc giảm đau.
  • Cải thiện quá trình phục hồi: Việc giảm đau tốt hơn góp phần vào việc mau chóng hồi phục chức năng chi trên sau phẫu thuật.

Biến Chứng và Rủi Ro

Mặc dù gây tê đám rối thần kinh cánh tay là tương đối an toàn, một số biến chứng có thể phát sinh, bao gồm:

  • Nhiễm trùng: Thông thường nguy cơ này là thấp nhưng có thể xảy ra ở vị trí tiêm.
  • Tổn thương thần kinh: Tổn thương này thường tạm thời và bệnh nhân phục hồi hoàn toàn trong thời gian ngắn.
  • Hạ huyết áp: Một số bệnh nhân có thể gặp tình trạng hạ huyết áp nhưng thường được kiểm soát dễ dàng.

Kết Luận

Gây tê đám rối thần kinh cánh tay là một kỹ thuật quan trọng trong lĩnh vực gây mê hiện đại, mang lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân cũng như cải thiện kết quả phẫu thuật. Khả năng quản lý đau tốt hơn và giảm thiểu nhu cầu sử dụng thuốc opioid đã khiến cho kỹ thuật này ngày càng trở nên phổ biến hơn trong các ca phẫu thuật chi trên.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "gây tê đám rối thần kinh cánh tay":

TÁC DỤNG CỦA LEVOBUPIVACAIN PHỐI HỢP FENTANYL TRONG GÂY TÊ ĐÁM RỐI THẦN KINH CÁNH TAY SAU PHẪU THUẬT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng vô cảm, ức chế vận động, giảm đau sau phẫu thuật của phương pháp gây tê đám rối thần kinh cánh tay bằng levobupivacain phối hợp fentanyl. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có nhóm chứng trên 100 bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật từ 1/3 dưới cánh tay đến ngón tay dưới gây tê ĐRTKCT tại Bệnh viện quân y 175 từ tháng 1/2021 đến tháng 5/2022. Kết quả: Thời gian tiềm tàng ức chế cảm giác đau ở nhóm I thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm II. Thời gian tác dụng ức chế cảm giác đau và giảm đau sau phẫu thuật ở nhóm I cao hơn có ý nghĩa so với nhóm II. Thời gian tiềm tàng ức chế vận động ở nhóm I thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm II. Thời gian tác dụng ức chế vận động ở nhóm I cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm II. Tỷ lệ chất lượng vô cảm tốt ở nhóm I là 90%, cao hơn ở nhóm II (88%). Sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê. Chưa rõ sự liên quan giữa tuổi, giới, tình trạng ASA với thời gian ức chế cảm giác, thời gian ức chế vận động. Kết luận: Hiệu quả vô cảm, ức chế vận động và giảm đau của nhóm phối hợp levobupivacain-adrenalin-fentanyl cao hơn nhóm chỉ sử dụng đơn thuần levobupivacain-adrenalin.
#levobupivacain-fentanyl #gây tê đám rối thần kinh cánh tay
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU PHẪU THUẬT KHỚP VAI BẰNG GÂY TÊ ĐÁM RỐI THẦN KINH CÁNH TAY ĐƯỜNG LIÊN CƠ BẬC THANG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 1 - 2022
Thực hiện các biện pháp giảm đau sau phẫu thuật khớp vai có ý nghĩa lớn trong thực hànhlâm sàng. Các phương pháp giảm đau sau mổ đều có ưu điểm và nhược điểm. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mục tiêu: so sánh hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật khớp vai của phương pháp gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường liên cơ bậc thang tiêm một lần hoặc truyền liên tục dưới hướng dẫn siêu âm. Phương pháp nghiên cứu tiến cứu, thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên được tiến hành tại BV Việt Đức từ 3 – 8/2021. 61bệnh nhân, chia thành 2 nhóm. Kết quả: các chỉ số nhân trắc, ASA, loại phẫu thuật giữa 2 nhóm không có sự khác biệt.Điểm VAS lúc nghỉtrung bình của 2 nhóm đều  dưới 4 tại các thời điểm nghiên cứu, điểm VAS nhóm truyền liên tục (nhóm I) thấp hơn nhóm tiêm một lần (nhóm II) tại thời điểm nghiên cứu từ T16 đến T48, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.Điểm VAS trung bình khi vận động của các bệnh nhân ở nhóm Ithấp hơn nhóm II từ thời điểm T12 đến T72, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Kết luận: điểm VAS khi nghỉ và vận động của nhóm truyền liên tục thấp hơn so với nhóm tiêm một lần, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê từ giờ thứ 12 sau phẫu thuật. Các tác dụng không mong muốn thấp và không có sự khác biệt giữa 2 nhóm.
#Gây tê đám rối thần kinh cánh tay #siêu âm #giảm đau #Ropivacain
HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU MỔ PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ CHỌN LỌC THÂN TRÊN CỦA ĐÁM RỐI THẦN KINH CÁNH TAY MỘT LIỀU DUY NHẤT DƯỚI HƯỚNG DẪN CỦA SIÊU ÂM Ở BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT NỘI SOI KHỚP VAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 2 - 2022
Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá tác dụng giảm đau và các tác dụng không mong muốn sau mổ của phương pháp gây tê chọn lọc thân trên của đám rối thần kinh cánh tay một liều duy nhất dưới hướng dẫn của siêu âm ở bệnh nhân phẫu thuật nội soi khớp vai. 30 bệnh nhân phẫu thuật nội soi khớp vai theo chương trình được giảm đau sau mổ bằng phương pháp gây tê chọn lọc thân trên của đám rối thần kinh cánh tay một liều duy nhất dưới hướng dẫn của siêu âm tại Trung tâm Gây mê và Hồi sức ngooại khoa– Bệnh viện Việt Đức từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2021. Thời gian thực hiện kĩ thuật, điểm đau VAS khi nghỉ và khi vận động, mức độ hài lòng của bệnh nhân và số lượng morphin tiêu thụ và một số tác dụng không mong muốn được ghi lại trong 24 giờ sau mổ. Thời gian thực hiện kĩ thuật trung bình là 5,12 ± 1,72 (phút). Điểm VAS trung bình khi nghỉ đều < 3 và khi vận động đều xấp xỉ 4 ở tất cả các thời điểm trong 24 giờ đầu sau mổ. Lượng morphin sử dụng trung bình là 16,56 ± 3,45 (mg) và 66,7% bệnh nhân có mức độ rất hài lòng và 23,3% ở mức độ hài lòng. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phương pháp gây tê chọn lọc thân trên của đám rối thần kinh cánh tay một liều duy nhất ở bệnh nhân phẫu thuật nội soi khớp vaidưới hướng dẫn siêu âm có hiệu quả giảm đausau mổtrong 24 giờ đầu cho các phẫu thuậtnội soi khớp vai.
#gây tê chọn lọc #thân trên đám rối thần kinh cánh tay #nội soi khớp vai #hướng dẫn của siêu âm #giảm đau sau mổ #một liều duy nhất
HIỆU QUẢ GÂY TÊ KHI THÊM DEXAMETHASONE VÀO LEVOBUPIVACAIN TRONG GÂY TÊ ĐÁM RỐI CÁNH TAY ĐƯỜNG TRÊN ĐÒN CHO PHẪU THUẬT CHI TRÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 2 - 2023
Mục tiêu: So sánh tác dụng ức chế cảm giác, ức chế vận động, hiệu quả vô cảm và giảm đau sau mổ cho phẫu thuật chi trên khi thêm 8mg dexamethasone vào dung dịch levobupvacain 0,5% và adrenalin 5mcg/ml với khi không thêm trong gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường trên đòn. Đối tượng và phương pháp: Phương pháp nghiên cứu mô tả, tiến cứu, ngẫu nhiên, có đối chứng trên 60 bệnh nhân được phẫu thuật chi trên theo kế hoạch tại bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên từ tháng 1/ 2022 đến tháng 9/2022. Kết quả: Tỷ lệ chất lượng vô cảm tốt ở nhóm LA và LAD lần lượt là 90% và 93,33%. Không có trường hợp nào chất lượng vô cảm kém. Sự khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê. Thời gian tiềm tàng ức chế cảm giác và vận động ở nhóm LAD (lần lượt là: 5,33 ± 1,42 phút và 8,40 ± 2,04 phút) thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm LA (lần lượt là: 7,20 ± 1,56 phút và 10,23 ± 2,23 phút). Thời gian tác dụng ức chế cảm giác, vận động, yêu cầu liều cứu giảm đau đầu tiên ở nhóm LAD (lần lượt là: 1132,20 ± 224,84 phút, 995,37 ± 227,03 phút và 1107,37 ± 219,09 phút) dài hơn có ý nghĩa so với nhóm LA (lần lượt là: 871,50 ± 154,37 phút, 733,93 ± 161,83 phút và 842,37 ± 159,02 phút). Kết luận: Việc thêm dexamethasone vào levobupivacain trong gây tê đám rối thần kinh đường trên đòn đã giúp giảm thời gian tiềm tàng, kéo dài thời gian tác dụng ức chế cảm giác, vận động và giảm đau sau mổ. Đồng thời cũng cho kết quả vô cảm tốt khi phẫu thuật chi trên.
#Gây tê đám rối thần kinh cánh tay #levobupivacain #dexamethasone #giảm đau sau mổ
Đánh giá hiệu quả giảm đau của gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường trên đòn dưới hướng dẫn siêu âm cho bệnh nhân cấp cứu chấn thương chi trên
Tóm tắt Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau và các tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường trên đòn dưới hướng dẫn của siêu âm cho bệnh nhân cấp cứu chấn thương chi trên. Đối tượng và phương pháp: 80 bệnh nhân chấn thương chi trên được chọn ngẫu nhiên tại Khoa Cấp cứu chấn thương, Bệnh viện Xanh Pôn và Bệnh viện Việt Đức được chia thành 2 nhóm: Nhóm 1 (n = 40) sử dụng máy siêu âm gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường trên đòn, liều bupivacain 2mg/ kg pha với NaCl 0,9% thành 20ml, nhóm 2 (n = 40) sử dụng morphin tiêm bắp liều 0,2mg/kg. Theo dõi và đánh giá hiệu quả giảm đau, ảnh hưởng trên tuần hoàn, hô hấp và các tác dụng không mong muốn trong quá trình giảm đau. Các chỉ tiêu nghiên cứu được ghi nhận ở phút thứ 5 (P5), phút thứ 10 (P10), phút thứ 15 (P15), phút thứ 30 (P30), phút thứ 60 (P60), giờ thứ 2 (H2), giờ thứ 4 (H4), giờ thứ 8 (H8), giờ thứ 16 (H16), giờ thứ 24 (H24) sau gây tê. Kết quả: Điểm VAS khi nghỉ ở nhóm gây tê nhỏ hơn nhóm morphin tại các thời điểm từ P5 đến H8, điểm VAS khi vận động ở nhóm gây tê tại các thời điểm P15 đến H8 đều nhỏ hơn 4, thấp hơn điểm VAS khi vận động ở nhóm morphin, những sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Thời gian chờ tác dụng giảm đau của nhóm 1 ngắn hơn nhóm 2 (8,7 ± 2,9 phút và 10,8 ± 3,2 phút, p<0,05). Thời gian giảm đau của nhóm 1 kéo dài hơn nhóm 2 (352,0 ± 98,1 phút và 258,0 ± 67,1 phút, p<0,05). Tần số tim và huyết áp, tần số thở, bão hòa oxy mao mạch (SpO2) trung bình của cả 2 nhóm đều trong giới hạn bình thường, không thấy khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm (p>0,05). Kết luận: Gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường trên đòn dưới hướng dẫn siêu âm là phương pháp giảm đau an toàn và hiệu quả cho các bệnh nhân cấp cứu chấn thương chi trên. Từ khoá: Giảm đau, gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường trên đòn, hướng dẫn siêu âm, chấn thương chi trên.
#Giảm đau #gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường trên đòn #hướng dẫn siêu âm #chấn thương chi trên
So sánh hiệu quả gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường trên đòn dưới hướng dẫn siêu âm với máy kích thích thần kinh cơ cho phẫu thuật chi trên tại Bệnh viện Quân y 7A
Mục tiêu: So sánh thời gian khởi phát cảm giác, vận động, thời gian tác dụng phóng bế cảm giác, vận động, tỷ lệ thành công và biến chứng của hai kỹ thuật gây tê đám rối thần kinh cánh tay dưới siêu âm và máy kích thích thần kinh. Đối tượng và phương pháp: 60 bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật chi trên từ 1/3 dưới cánh tay trở xuống tại Bệnh viện Quân y 7A, từ tháng 5/2020 tới tháng 9/2020, được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm. Nhóm I: Được gây tê đám rối thần kinh cánh tay dưới hướng dẫn của siêu âm, nhận 20ml hỗn hợp thuốc tê gồm levobupivacain 0,5% và lidocaine 2% có adrenalin 1/200.000.  Nhóm II: Gây tê dưới hướng dẫn của máy kích thích thần kinh, nhận 20ml thuốc tê gồm levobupivacaine 0,5% và lidocaine 2% có adrenaline 1/200.000. Kết quả: Thời gian thực hiện kỹ thuật (5,5 ± 2,68 so với 4,6 ± 1,72 phút), thời gian khởi phát ức chế cảm giác (5,03 ± 1,09 so với 9,6 ± 1,58 phút), thời gian khởi phát ức chế vận động (8,0 ± 1,98 so với 12,26 ± 2,27 phút) ở nhóm I ngắn hơn nhóm II, có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Thời gian ức chế cảm giác (335,15 ± 115,30 so với 312,30 ± 105,15 phút), thời gian ức chế vận động (285,13 ± 103,20 so với 255,40 ± 98,35 phút) ở nhóm I dài hơn nhóm II có ý nghĩa thống kê với p<0,05). Tỷ lệ tê tốt (96,66% so với 90%) và biến chứng (3,33% so với 9,90%). Kết luận: Gây tê đám rối thần kinh cánh tay dưới hướng dẫn của siêu âm có ưu điểm là rút ngắn thời gian khởi phát ức chế cảm giác và vận động. Thời gian ức chế cảm giác và vận động dài hơn, tăng tỷ lệ thành công, giảm tỷ lệ biến chứng so với gây tê đám rối thần kinh cánh tay dưới hướng dẫn của máy kích thích thần kinh.
#Gây tê đám rối thần kinh cánh tay #hướng dẫn của siêu âm
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU PHẪU THUẬT CHI TRÊN Ở TRẺ EM BẰNG GÂY TÊ ĐÁM RỐI THẦN KINH CÁNH TAY ĐƯỜNG TRÊN ĐÒN DƯỚI HƯỚNG DẪN SIÊU ÂM TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI NGHỆ AN TỪ 02/2022-09/2022
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 63 Số 8 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật chi trên ở trẻ em bằng gây tê đám rốithần kinh cánh tay đường trên đòn dưới hướng dẫn siêu âm.Đối tượng - Phương pháp: 54 bệnh nhi phẫu thuật chi trên, đủ tiêu chuẩn lựa chọn được phânbố ngẫu nhiên vào 2 nhóm: Gây mê có phối hợp gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường trên đòndưới hướng dẫn siêu âm (nhóm I) hoặc gây mê đơn thuần (nhóm II).Kết quả: Điểm an thần Ramsay sau mổ: Nhóm I 100% bệnh nhân đạt ≤ 3, nhóm II có 85,18%đạt ≤ 3 và 14,82% bệnh nhân đạt 4 điểm (p<0,05); thời gian giảm đau trung bình ở nhóm I 7,13 ±0,64 giờ; thời gian tỉnh trung bình sau mổ nhóm I 7,85 ± 2,35, nhóm II 13,70 ± 2,65, (p<0,05); sốlần dùng thêm giảm đau sau mổ nhóm I là 1,30 ± 0,47, nhóm II 3,26 ± 0,59, (p<0,05).Kết luận: Hiệu quả giảm đau sau mổ tốt hơn gây mê đơn thuần với: điểm an thần Ramsay saumổ tốt hơn, thời gian tỉnh mổ ngắm hơn, thời gian giảm đau sau mổ kéo dài và số lần dùng thêmgiảm đau sau mổ ít hơn đáng kể so với các bệnh nhi chỉ được gây mê đơn thuần.
#Gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường trên đòn #dưới hướng dẫn siêu âm #trẻ em.
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÔ CẢM CHO PHẪU THUẬT CHI TRÊN CỦA PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ ĐÁM RỐI THẦN KINH CÁNH TAY ĐƯỜNG LIÊN CƠ BẬC THANG DƯỚI HƯỚNG DẪN SIÊU ÂM
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 1B - 2023
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả  thực hiện gây tê đám rối thần kinh cánh tay dưới hướng dẫn của siêu âm. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Với 30 bệnh nhân phẩu thuật chi trên từ cánh tay đến bàn tay, không có chống chỉ định của gây tê đám rối thần kinh cánh tay, ASA I,II. Tuổi từ 16 đến 70 tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ từ 2/2020 đến 9/2020. Bệnh nhân được gây tê đám rối thần kinh đường liên cơ bậc thang dưới hướng dẫn của siêu âm. Mỗi bệnh nhân được tiêm 30 ml lidocain 1% và 150mcg adrenaline, sau đó đánh giá ức chế cảm giác và vận động theo thang điểm Hollmen, ghi nhận dấu dị cảm, thời gian chờ tác dụng ức chế cảm giác, vận động, thời gian ức chế cảm giác, vận động, tỉ lệ thành công và biến chứng xảy ra.  Kết quả: Thời gian chờ tác dụng ức chế cảm giác trung bình 5,00±1,23 phút, thời gian chờ tác dụng ức chế vận động trung bình là 16,55±2,58 phút, thời gian ức chế cảm giác trung bình là 135,46±12,54 phút, thời gian ức chế vận động trung bình là 146,33±14,41 phút, tỉ lệ thành công: 90% tốt, 10% khá, không có trường hợp nào phải chuyển phương pháp vô cảm. Không có biến chứng đáng tiếc nào xảy ra, chỉ có một trường hợp vỡ bao thần kinh vì bơm áp lực quá mạnh. Kết luận: Gây tê đám rối thần kinh đường cơ bậc thang dưới hướng dẫn của siêu âm tỉ lệ thành công cao chiếm 90%  tốt, 10% khá. Tỉ lệ này cao hơn kỹ thuật kích thích thần kinh cơ, giảm thời gian chờ tác dụng ức chế cảm giác và vận động, tăng thời gian ức chế cảm giác và vận động, liều lượng thuốc tê cần dùng thấp. Không gặp các tai biến và tác dụng không mong muốn nặng nề trong nghiên cứu này.
#biến chứng #gây tê đám rối thần kinh đường liên cơ bậc thang #kích thích thần kinh #hướng dẫn siêu âm #phẫu thuật chi trên
Đánh giá hiệu quả gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường gian cơ bậc thang dưới hướng dẫn siêu âm trong vi phẫu thuật nối mạch máu thần kinh vùng cẳng tay
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả gây tê đám rối thần kinh cánh tay dưới hướng dẫn siêu âm trong vi phẫu thuật nối mạch máu thần kinh vùng cẳng tay. Đối tượng và phương pháp: 45 bệnh nhân, ASA I, II, tuổi từ 16 đến 65, có chỉ định nối mạch máu, thần kinh vùng cẳng tay. Bệnh nhân được gây tê đám rối cánh tay đường gian cơ bậc thang dưới hướng dẫn siêu âm bằng marcain 0,375% (1,5mg/kg) kết hợp lidocain 2% (2mg/kg), đánh giá mức độ ức chế cảm giác đau theo thang điểm của Hollmen, ức chế vận động theo thang điểm Bromage. Kết quả: Thời gian xuất hiện mất cảm giác đau tại cẳng bàn tay trung bình 6,70 ± 2,22 phút, thời gian kéo dài ức chế cảm giác đau trung bình 327,8 ± 21,48 phút, thời gian xuất hiện ức chế vận động 13,25 ± 3,73 phút, thời gian kéo dài ức chế vận động độ 3: 241,78 ± 65,67 phút, mức độ ức chế vận động chủ yếu là độ 3. Tỷ lệ thành công 97,77%. Không có trường hợp tai biến biến chứng nào được ghi nhận trong nghiên cứu. Kết luận: Gây tê đám rối thần kinh cánh tay dưới hướng dẫn của siêu âm có tỷ lệ thành công cao, thời gian tê kéo dài đảm bảo cho vi phẫu thuật vùng cẳng bàn tay.
#Gây tê thần kinh #siêu âm #vi phẫu thuật
Tổng số: 11   
  • 1
  • 2